Bão lũ đã làm 235 người chết và mất tích; trên 201 nghìn ngôi nhà bị sập đổ, hư hỏng, tốc mái.
Văn bản 583/BC-CP ngày 2/11/2020 của Chính phủ báo cáo Quốc hội về tình hình phòng, chống thiên tai, bão lũ ở các tỉnh miền Trung nêu rõ: Từ tháng 10 đến nay, bão lũ đã liên tiếp xảy ra tại các tỉnh miền Trung với phạm vi rộng, cường độ rất mạnh và gây ra những hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Tình trạng “bão chồng bão”, “lũ chồng lũ” chưa từng có trong nhiều năm qua đã gây thiệt hại rất lớn về người và tài sản, ảnh hưởng nặng nề tới đời sống và sản xuất của hàng triệu người dân trên địa bàn.
Đã xảy ra 5 cơn bão (số 5, 6, 7, 8, 9) đổ bộ vào các tỉnh phía Bắc và Trung Trung bộ gây ra mưa đặc biệt lớn, lũ lịch sử. Ngập lụt xảy ra trên diện rộng, thời điểm cao nhất vào ngày 12/10 và 19/10 có trên 317.000 hộ (1,2 triệu nhân khẩu) bị ngập lụt tại các địa phương từ Nghệ An đến Quảng Nam, nhiều nơi ngập sâu, có nơi kéo dài tới 15 ngày. Trong đó, Quảng Bình là tỉnh bị ngập nặng nhất với trên 109.000 hộ (437.000 nhân khẩu), có nơi ngập sâu đến 2-3m (tại các huyện Lệ Thủy, Quảng Ninh).
Đặc biệt, các đợt bão chồng bão và mưa, lũ lớn liên tục gây ra nhiều vụ sạt lở đất rất nghiêm trọng, nhất là tại Thủy điện Rào Trăng 3, Trạm Kiểm lâm số 67 Phong Điền (Thừa Thiên Huế); Đoàn Kinh tế - Quốc phòng 337 Hướng Hóa (Quảng Trị); Trà Leng và Trà Vân, huyện Nam Trà My và Phước Lộc, huyện Phước Sơn (Quảng Nam), cướp đi sinh mạng của hàng trăm người dân và hàng chục cán bộ, chiến sỹ.
Nhờ sự chỉ đạo tập trung, quyết liệt của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành, đặc biệt là vai trò trực tiếp của các địa phương cùng sự nỗ lực, cố gắng rất lớn của nhân dân trong công tác phòng chống, khắc phục hậu quả bão lũ nên đã góp phần hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại về người và tài sản cho người dân, doanh nghiệp và Nhà nước.
Tuy nhiên, từ cuối tháng 9 đến nay, mưa lũ lớn lịch sử, kéo dài, bão số 9 có cường độ mạnh, di chuyển nhanh, phạm vi rộng, sức tàn phá rất lớn nên đã gây thiệt hại nặng nề.
Cụ thể, về người: 235 người chết và mất tích (riêng bão số 9: 80 người); về nhà ở: Trên 201 nghìn ngôi nhà bị sập đổ, hư hỏng, tốc mái (riêng bão số 9 là trên 177.000 ngôi nhà); về giao thông: Trên 1,8 triệu m3 đất, đá sạt lở (riêng bão số 9 làm sạt lở 744.000 m3), gây chia cắt nhiều tuyến đường giao thông huyết mạch, cả quốc lộ, tỉnh lộ và các đường liên thôn, liên xã, gây khó khăn lớn cho công tác cứu trợ, cứu hộ, cứu nạn.
Sơ bộ ước tính thiệt hại về kinh tế là khoảng 17.000 tỷ đồng, trong đó riêng thiệt hại do bão số 9 là hơn 10.000 tỷ đồng (chưa kể nhiều cơ sở hạ tầng và hàng trăm km đê điều, kênh mương, bờ sông, bờ biển bị hư hỏng, sạt lở).
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các cấp, các ngành chủ động phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể, tổ chức chính trị - xã hội – nghề nghiệp và nhân dân đồng loạt triển khai các hoạt động cứu hộ cứu nạn, hỗ trợ, cứu trợ lương thực, thực phẩm, nhu yếu phẩm cho người dân.
Trong đó, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định hỗ trợ khẩn cấp 11.500 tấn gạo (dự kiến tiếp tục hỗ trợ thêm khoảng 9.000 tấn gạo) và trên 1.000 tỷ đồng từ dự phòng ngân sách Trung ương cùng nhiều trang thiết bị cứu hộ cứu nạn, hàng dự trữ y tế, nhu yếu phẩm khác phục vụ kịp thời người dân bị ảnh hưởng.
6 nhiệm vụ cấp bách trước mắt
Trong thời gian tới, Chính phủ xác định 6 nhiệm vụ cấp bách trước mắt bao gồm:
Thứ nhất, huy động mọi lực lượng, phương tiện tiếp tục tập trung tìm kiếm các nạn nhân bị mất tích, trong đó có các nạn nhân do sạt lở đất tại công trường thủy điện Rào Trăng 3 (tỉnh Thừa Thiên Huế) và tại các huyện Nam Trà My, Phước Sơn (tỉnh Quảng Nqam), các ngư dân 2 tàu cá của Bình Định…; trong quá trình tìm kiếm cứu nạn phải đảm bảo an toàn cho lực lượng cứu hộ, cứu nạn.
Thứ hai, tập trung cứu trợ, hỗ trợ, bảo đảm cuộc sống cho người dân sau bão, lũ, nhất là người dân vùng sâu, vùng xa bị cô lập, chia cắt giao thông. Hỗ trợ kịp thời người dân sửa chữa nhà cửa bị hư hại, hỗ trợ lương thực, thực phẩm, thuốc men, không để người dân không có chỗ ở, bị thiếu đói, bệnh tật; tổ chức thăm hỏi, động viên, hỗ trợ các gia đình bị thiệt hại, nhất là các gia đình có người bị nạn. Đây là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trước hết là của cấp ủy, chính quyền, các lực lượng quân đội, công an và đoàn thể các cấp ở địa phương.
Thứ ba, khắc phục nhanh các công trình hạ tầng bị sự cố, hư hỏng do bão, lũ; trong đó tập trung khôi phục hệ thống cấp điện, thông tin liên lạc, giao thông, thủy lợi, đê điều, trường học, bệnh viện, các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ…
Thứ tư, tập trung xử lý vệ sinh môi trường, nhất là nguồn nước cho sinh hoạt của người dân, không để bùng phát dịch bệnh sau bão, lũ.
Thứ năm, tiếp tục theo dõi chặt chẽ diễn biến, chủ động triển khai các biện pháp ứng phó thiên tai, trước hết là với bão số 10 được dự báo sẽ tiếp tục ảnh hưởng đến khu vực miền Trung trong những ngày tới. Cần rà soát, chủ động sơ tán dân cư ra khỏi các khu vực nguy hiểm, nhất là những khu vực có nguy cơ cao xảy ra sạt lở đất, lũ quét. Chủ động triển khai các biện pháp bảo vệ an toàn hồ đập, an toàn cho hạ du…
Thứ sáu, tập trung hỗ trợ người dân phục hồi sản xuất sau bão, lũ để sớm ổn định lại sản xuất và đời sống cho người dân.
7 nhiệm vụ căn bản, lâu dài
Bên cạnh đó, Chính phủ cũng nêu rõ 7 nhiệm vụ căn bản, lâu dài gồm:
1- Nghiên cứu, đánh giá cụ thể và rà soát xây dựng lại các kịch bản biến đổi khí hậu để đưa ra các giải pháp ứng phó phù hợp, nhất là việc xây dựng các quy định, tiêu chuẩn, quy chuẩn cụ thể để xây dựng các thiết chế hạ tầng như đường giao thông, các công sở, nhà ở… đảm bảo phù hợp, an toàn trước thiên tai.
2- Nâng cao chất lượng dự báo, cảnh báo thiên tai đảm bảo kịp thời, chính xác hơn, phục vụ công tác chỉ đạo, ứng phó được hiệu quả; hiện đại hóa mô hình, công nghệ dự báo; bổ sung các trạm quan trắc khí tượng thủy văn, nhất là các trạm đo mưa, trong đó cần đẩy mạnh xã hội hóa công tác quan trắc.
3- Tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng, lập các bản đồ cảnh báo nguy cơ sạt lở đất, lũ quét, bản đồ ngập lụt hạ du các hồ chứa với tỷ lệ phù hợp làm cơ sở quy hoạch bố trí dân cư, chủ động di dời, tái định cư ở các khu vực có nguy cơ xảy ra lũ quét, sạt lở đất, ngập lụt.
4- Điều chỉnh, lồng ghép nội dung phòng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai vào quy hoạch, kế hoạch, chiến lược phát triển của các ngành, địa phương theo hướng kết hợp đa mục tiêu; hạn chế tối đa việc gia tăng rủi ro thiên tai, thích ứng với đặc điểm của từng vùng, miền, nhất là vùng ven biển, khu vực đông dân cư và xu hướng biến đổi khí hậu.
5- Kiện toàn tổ chức, bộ máy phòng chống thiên tai chuyên nghiệp từ Trung ương đến địa phương, xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp, có năng lực, trình độ phù hợp, đáp ứng yêu cầu phòng chống thiên tai.
6- Xây dựng và triển khai chương trình ứng dụng khoa học công nghệ sản xuất trang thiết bị, nhu yếu phẩm cần thiết cho công tác phòng, chống thiên tai phù hợp với điều kiện Việt Nam.
7- Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương phải ưu tiên bố trí kinh phí trong kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 và dự phòng ngân sách hàng năm của Trung ương và địa phương cho công tác phòng chống thiên tai, tìm kiếm cứu nạn; trong đó chú trọng đầu tư cho các công trình hạ tầng phòng chống thiên tai thiết yếu, cấp bách, các công trình hạ tầng kinh tế, xã hội, dân sinh gắn với công tác phòng chống thiên tai, tìm kiếm cứu nạn từ Trung ương đến địa phương, nhất là lực lượng xung kích phòng, chống thiên tai tại cơ sở.